Sương Nguyệt Anh là nữ chủ bút đầu tiên của báo chí Việt Nam. Bà cũng là con gái thứ tư của của nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Đình Chiểu. Mới đây, Sương Nguyệt Anh đã được Google vinh danh nhân dịp kỷ niệm 105 năm phát hành báo “Nữ giới chung” – tờ báo đầu tiên do bà phụ trách lên tiếng đấu tranh vì quyền lợi, địa vị của phụ nữ nước nhà. Cùng quay trở lại lịch sử để tìm hiều rõ hơn về nữ sĩ cũng như tiểu sử cuộc đời, sự nghiệp của bà Sương Nguyệt Anh nhé!
Thông tin chung
Tên thật | Nguyễn Thị Ngọc Khuê |
Nghệ danh | Sương Nguyệt Anh |
Năm sinh – Năm mất | 1864 – 1922 |
Quê quán | Bến Tre |
Nghề nghiệp | Nhà thơ, Nữ chủ bút |
Năm hoạt động | Từ năm 1917 |
Tác phẩm nổi bật | Đoan Ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Tức sự, Chinh Phụ thi, Thưởng bạch Mai, Vịnh ni cô,… |
Vinh danh | Google Doodle ngày 1 tháng 2 năm 2023 tôn vinh bà với danh hiệu là nữ tổng biên tập đầu tiên của tờ báo phụ nữ đầu tiên ở Việt Nam. |
Gia đình | Cha: Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu Chồng: Nguyễn Công Tính Con: Nguyễn Thị Vinh |
Sương Nguyệt Anh là ai?
Sương Nguyệt Anh tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Khuê (theo “Nguyễn chi thế phổ”), tuy nhiên tên ghi trên bia mộ lại là Nguyễn Ngọc Khuê, tự là Nguyệt Anh. Ngoài bút hiệu Sương Nguyệt Anh, bà còn ký nhiều bút hiệu khác như: Xuân Khuê, Nguyệt Nga, Nguyệt Anh. Bút hiệu Sương Nguyệt Anh của bà có nghĩa là “Góa phụ Nguyệt Anh”.
Sương Nguyệt Anh (1864 – 1922) sinh ra tại làng An Bình Đông, nay là xã An Đức, Ba Tri, Bến Tre. Bà là con gái thứ tư (cho nên trong gia tộc thường gọi bà là Năm Hạnh) của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, mẹ là bà Lê Thị Điền, người làng Thanh Ba, huyện Cần Giuộc.
Thuở nhỏ, bà cùng người chị tên là Nguyễn Thị Xuyến, được cha (Đồ Chiểu) truyền dạy nên giỏi cả chữ Hán lẫn chữ Nôm. Khi cả hai khôn lớn, nổi tiếng tài sắc, được người quanh vùng ca tụng gọi là Nhị Kiều.
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho, lại được sự giáo dục kỹ lưỡng của người cha danh tiếng lẫy lừng Gia Định, bà không chỉ được yêu mến bởi tính tình điềm đạm, đôn hậu mà còn nổi tiếng thông minh, sắc sảo.
Suốt thời thanh xuân, bà nổi danh cả về tài sắc lẫn đức hạnh, song cốt cách lại giản dị, tự nhiên. Ngay cả khi gia đình rơi vào cảnh khó khăn, bà nghỉ học để vừa chăm lo việc gia đình, vừa giúp đỡ cha già bốc thuốc chữa bệnh.
Bà học giỏi, thường làm thơ bằng chữ Hán hay quốc ngữ để bày tỏ tâm sự trước cảnh nước mất nhà tan, nhân dân lầm than đau khổ. Sau bà trở thành nữ chủ bút đầu tiên của Việt Nam, phụ trách tờ báo “Nữ giới chung” – tờ báo đầu tiên của phụ nữ, được xuất bản tại Sài Gòn.
Cuộc đời, sự nghiệp của nữ sĩ Sương Nguyệt Anh
Năm 1888, Sương Nguyệt Anh được 24 tuổi thì cha mất. Tri phủ Ba Tường lúc đó đến hỏi bà làm vợ không được, nên mang lòng oán hận, đang tìm cách hãm hại.
Để tránh tai hoạ, bà cùng gia đình người anh (Nguyễn Đình Chúc) chuyển sang Cái Nứa (Mỹ Tho) rồi dời về Rạch Miễu ở nhờ nhà ông nghè Trương Văn Mân. Ở đây, bà kết duyên với một phó tổng sở tại, góa vợ tên Nguyễn Công Tính, sinh được một bé gái tên là Nguyễn Thị Vinh.
Cuộc hôn nhân đẹp đẽ đã sớm kết thúc bi thảm khi ông Tính bị Phủ Xuyên âm mưu sát hại. Năm con gái được 2 tuổi thì chồng mất. Từ đó bà thủ tiết nuôi con, thờ chồng và mở trường dạy chữ Nho cho học trò trong vùng để sinh sống. Và cũng từ đó, bà thêm trước bút hiệu Nguyệt Anh một chữ “sương”, thành “Sương Nguyệt Anh”, có nghĩa là “Nguyệt Anh goá chồng”.
Những năm 1906-1908, hưởng ứng phong trào Đông Du của Phan Bội Châu bà bán một phần điền sản và vận động quyên góp để giúp học sinh xuất dương sang Nhật du học.
Năm 1917, Sương Nguyệt Anh được một nhóm chí sĩ ái quốc mời làm chủ bút tờ “Nữ giới chung” nghĩa là “tiếng chuông của nữ giới”. Tờ báo ra số đầu tiên ngày 1/2/1918, với chủ trương nâng cao dân trí, khuyến khích công nông thương và nhất là đề cao vai trò phụ nữ trong xã hội.
Nhưng dù ngòi bút của Sương Nguyệt Anh có khéo léo đến đâu, tầm ảnh hưởng của tờ báo này khiến mật thám Pháp e ngại. Tháng 7/1918, tờ “Nữ giới chung” bị đình bản. Cũng ngay lúc này, người con gái độc nhất của bà (Nguyễn Thị Vinh) vừa sinh nở xong đã ngã bệnh qua đời.
Sau đó mắt bà bị bệnh, thường xuyên đau nhức và sức khoẻ cũng dần suy kiệt. Nghe lời thầy thuốc, Sương Nguyệt Anh dẫn cháu ngoại trở về Mỹ Chánh Hoà (Ba Tri), nương náu nơi nhà người em út tên là Nguyễn Đình Chiêm để chạy chữa, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, đôi mắt bà bị mù loà hẳn.
Từ đó, sớm chiều bà lại tiếp tục dò dẫm bốc thuốc, dạy học và sáng tác thơ văn. Sáng sớm ngày 12 tháng Chạp năm Tân Dậu (tức 9 tháng 1 năm 1922), Sương Nguyệt Anh trút hơi thở cuối cùng, lúc 58 tuổi.
Lúc đầu, mộ Sương Nguyệt Anh ở Mỹ Nhơn, về sau (năm 1959) được đồng bào cải táng dời về nằm cạnh mộ phần của song thân bà, tức nằm trong khu đền thờ và mộ Nguyễn Đình Chiểu ngày nay.
Mới đây, sáng 1/2, trên trang Google search tại Việt Nam, logo quen thuộc của công cụ này được cách điệu thể hiện hình ảnh bà Sương Nguyệt Anh mặc áo dài, tóc búi cao, xung quanh là các trang viết, bình hoa mai. Đó cũng là cách mà Google vinh danh Sương Nguyệt Anh, nữ tổng biên tập đầu tiên của Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 105 năm phát hành báo “Nữ giới chung”.
Theo đó, tác phẩm do họa sĩ Camelia Phạm thực hiện. Camelia Phạm cho biết cô đã cố gắng tìm kiếm hình ảnh biểu tượng từ những bài thơ của Sương Nguyệt Anh để minh họa. Sinh thời, nữ sĩ từng sáng tác bài Cây mai với những câu từ: “Tài không sắc, sắc không tài/ Lá úa nhành khô cũng tiếng mai/ Ngọc ánh chi nài son phấn đượm / Vàng ròng há sợ sắc màu phai“.
Những tác phẩm của nữ sĩ Sương Nguyệt Anh
Sương Nguyệt Anh sáng tác nhiều, nhưng bà không gom thành tập. Nay chỉ còn tản mác một số bài thơ như: Đoan Ngọ nhật điếu Khuất Nguyên, Tức sự, Chinh Phụ thi, Thưởng bạch Mai, Vịnh ni cô, vua Thành Thái vào Nam, cảm tác khi lính Việt đi Âu chiến… Và vài bài vè, như: Vè tiểu yêu, Vè Thầy Hỷ, Vè đánh đề…
Ngoài bản dịch bộ Yên Sơn ngoại sử của Trung Quốc ra thơ lục bát, một số ít bài thơ chữ Hán, thể vè lục bát; thơ của Sương Nguyệt Anh phần lớn là thơ Nôm, theo thể Đường luật.
Thơ của bà phần nhiều là để đối đáp lại những người đã trêu ghẹo, đã tỏ tình với mình, nhằm nêu lên đức kiên trinh của người phụ nữ Nam Bộ, như Tiễn ông Kinh Hối nhậm chức kinh lịch ở Sa Đéc, Hoạ thơ Bảy Nguyện, Họa thơ Phủ Ngọc, Họa thơ Bái Liêu, Thưởng Bạch Mai, Vịnh ni cô.
Trên tờ “Nữ giới chung”, bà đăng nhiều bài thơ đề cao tinh thần quật khởi của các nữ anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu hoặc đăng những bài thơ đề cao nữ quyền; đăng những bài thơ khuyên thanh niên Việt Nam không nên đi lính cho Pháp trong chiến tranh thế giới thứ nhất 1914-1918.
Bằng tất cả tài năng, tâm huyết, suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp chung, Sương Nguyệt Anh đã để lại trong tâm trí người Việt Nam hình ảnh đẹp về một nữ chủ bút đầu tiên, một nhà thơ đa tài và một người tiên phong trong cuộc đấu tranh vì quyền lợi, địa vị của phụ nữ nước nhà.
Đó là tất cả những thông tin chúng tôi muốn gửi tới độc giả về tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp của nữ sĩ – nữ chủ bút đầu tiên của Việt Nam Sương Nguyệt Anh. Đừng quên theo dõi Tieusu.com để không bỏ lỡ những thông tin mới nhất nhé!